Thị trường pin xe điện trong nửa đầu năm 2022 tăng 79%

Thị trường pin xe điện xEV (BEV, PHEV, HEV) tiếp tục tăng trưởng chưa từng thấy vào năm 2022, bỏ xa kết quả của năm 2021. Theo Adamas Intelligence, trong nửa đầu năm nay, khoảng 195,5 GWh dung lượng pin đã được ứng dụng trên các loại xe điện toàn cầu. Con số này tương đương với khoảng 79% của một năm về trước. Trong đó, pin dành cho xEV thương mại, hệ thống lưu trữ năng lượng hoặc các ứng dụng khác không được bao gồm.

So với 286 GWh được ứng dụng trong cả năm 2021 và 134,5 GWh vào năm 2020, đây là tỷ lệ rất cao. Năm nay rất có thể sẽ kết thúc ở mức hơn 400 GWh.

Theo báo cáo “Trạng thái sạc: Xe điện, Pin và Vật liệu làm pin, ô tô thuần điện (BEV) chiếm 89% tổng số pin xEV được triển khai, trong khi các loại xe hybrid không sạc chỉ đạt 1% (do dung lượng pin thấp):

  • BEV: khoảng 174,0 GWh (89%, tăng từ 87% của năm ngoái)
  • PHEV: khoảng 19,6 GWh (10%, giảm từ 11% của năm ngoái)
  • HEV: khoảng 2,0 GWh (1%, giảm từ 2% của năm ngoái)
  • xEV: 195,5 GWh (tăng 79% so với năm trước từ 109,0 GWh

Xét theo vị trí địa lý:

  • Châu Á Thái Bình Dương: 58% (113 GWh), tăng từ 48% của năm ngoái.
  • Châu Âu: 25% (48,1 GWh), giảm từ 33% của năm ngoái.
  • Châu Mỹ: 17% (33,4 GWh), giảm từ 18% của năm ngoái.
  • Khác: 1,1%

vị trí địa lý

Xét về các nhà sản xuất pin xEV hàng đầu, có thể ghi nhận vị thế vượt trội của CATL và BYD khi tiếp cận LG Energy Solution trong cuộc chiến giành vị trí thứ hai:

  • CATL: 64,9 GWh (33% thị phần, tăng 27% so với năm ngoái)
  • Giải pháp năng lượng LG: 33,8 GWh (so với 27,9 GWh của năm ngoái)
  • BYD: 24,4 GWh (tăng gấp ba lần so với 7,1 GWh của năm ngoái)
  • Panasonic
  • SK Innovation’s SK On
  • Samsung SDI
  • CALB
  • Gotion
  • Farasis Energy
  • Envision AESC: dưới 2,0 GWh

Bảy nhà sản xuất hàng đầu kiểm soát hơn 82% thị trường.

công ty pin

 

Lithium Iron Phosphate (LFP) đã trở thành hóa chất pin lithium-ion phổ biến nhất cho các dòng xe điện, mặc dù họ NCM (cực âm giàu niken), nói chung, vẫn chiếm đa số:

  1. LFP: 52,7 GWh (27% thị phần, tăng 237% so với năm trước)
  2. NCM 5-series: 41,6 GWh (21% thị phần)
  3. NCM 8-series: 36,2 GWh (19% thị phần)
  4. NCM 6-series: khoảng 23,5 GWh (12% thị phần)
  5. NCA Gen 3: khoảng 19,6 GWh (10% thị phần)
  6. Dòng NCM 7
  7. NCM 111
  8. NCM/LMO
  9. NiOH
  10. LMO: dưới 1,0 GWh

vật liệu pin

Báo cáo trong nửa đầu năm chỉ ra rằng khoảng 6,23 triệu xe điện đã được đăng ký mới (tăng 42% so với cùng kỳ năm ngoái, từ 4,40 triệu trong nửa đầu năm 2021). Có thể thấy, ô tô chạy hoàn toàn bằng điện đang dần trở thành phân khúc thống trị:

  • BEV: khoảng 3,05 triệu (49% tổng số xEV, tăng từ 40% một năm trước)
  • PHEV: khoảng 1,18 triệu (19% tổng số xEV, giảm so với 20% một năm trước)
  • HEV: khoảng 1,99 triệu (32% tổng số xEV, giảm từ 41%)
  • xEV: 6,23 triệu (tăng 42% so với năm trước)

*Ở Châu Á Thái Bình Dương, mức tăng trưởng lên tới 75% so với năm trước.

loại xe điện

 

Việc mở rộng thị trường pin vượt xa mức tăng doanh số bán xEV (một lần nữa). Điều này không có gì ngạc nhiên vì ô tô plugin thường được trang bị pin có kích thước ngày càng lớn hơn, điều này giúp tăng tổng mức doanh số bán xEV.

Theo Adamas Intelligence, tổng dung lượng pin trung bình tính theo doanh số bán hàng toàn cầu của tất cả các xEV mới lên tới 31,4 kWh (tăng 27% so với năm trước từ 24,8 kWh).

Ngoài ra, dung lượng trung bình của các gói pin cũng đã được thống kê trong báo cáo. Tuy nhiên, kết quả sẽ vẫn có thể sai số từ 1-2%: 

  • BEV: khoảng 57 kWh
  • PHEV: khoảng 16,6 kWh
  • HEV: khoảng 1 kWh
  • xEV: 31,4 kWh (tăng 27% so với cùng kỳ năm ngoái từ 24,8 kWh)

Điều thú vị là nhiều BEV (xe thuần điện) trên thị trường được trang bị pin có dung lượng khoảng 60 kWh.

Con số trung bình này được dự đoán sẽ tiếp tục tăng do nhu cầu cải thiện phạm vi di chuyển của khách hàng. Ngoài ra, hiện nay cũng có nhiều công nghệ mới giúp các hãng sản xuất ô tô tăng dung lượng pin mà vẫn tiết kiệm chi phí. Mặt khác, tốc độ tăng trưởng dự kiến sẽ giảm bởi vì, tại một số thời điểm, người dùng chỉ cần mức phạm vi vừa đủ cũng như công nghệ sạc nhanh càng phát triển hơn.

Về vật liệu pin, báo cáo “Trạng thái sạc: Xe điện, Pin và Vật liệu pin” của Adamas Intelligence đã cung cấp những chi tiết thực sự thú vị. Điều đáng chú ý là sự gia tăng sử dụng niken, coban và mangan đã bị hạn chế đáng kể do sự mở rộng của hóa chất LFP (với chi phí của NCM).

  • Lithium carbonate equivalent (“LCE”) – 117.200 tấn (tăng 76% so với năm trước). Trong đó, 59% dưới dạng cacbonat, 41% dưới dạng hydroxit.

*trung bình: khoảng 0,6 kg/kWh, khoảng 18,8 kg/xEV (tăng 24%) hoặc 34 kg/BEV

  • Niken – 88.200 tấn (tăng 50% so với năm trước)

*trung bình: khoảng 0,5 kg/kWh, khoảng 14,1 kg/xEV (tăng 6%)

  • Coban – 18.500 tấn (tăng 44% so với năm trước)

*trung bình: khoảng 0,1 kg/kWh, khoảng 3,0 kg/xEV (tăng 2%)

  • Mangan – 23.700 tấn (tăng 44% so với năm trước)

*trung bình: khoảng 0,1 kg/kWh, khoảng 3,8 kg/xEV (tăng 2%)

  • Than chì – 177.200 tấn (tăng 86% so với năm trước)

*trung bình: khoảng 0,9 kg/kWh, khoảng 28,4 kg/xEV (tăng 32%)

* tỷ lệ trung bình chỉ được thống kê một cách tóm tắt (không phải tất cả các xEV đều sử dụng các thành phần nói trên)

(Theo Inside EVs)